Lịch sử và sự phát triển thuật ngữ Tầng_lớp_trung_lưu

Một chiếc Mercedes-Benz C-Class, theo cách xếp hạng ô tô chính thức của Đức, được coi là Mittelklasse Fahrzeug hay Phương tiện Trung lưu.

Tầng lớp trung lưu trong bày này hàm ý chỉ những người không thuộc tầng lớp trên cùng cũng không thuộc tầng lớp dưới cùng của một hệ thống cấp bậc xã hội.Không phải tất cả mọi người đều chấp nhận ví dụ định nghĩa ở trên, bởi vì thuật ngữ "tầng lớp trung lưu" đã có lịch sử lâu dài, và thỉnh thoảng mang những nghĩa trái ngược. Nó từng được định nghĩa theo cách loại trừ là một tầng lớp xã hội trung gian giữa quý tộcnông dânChâu Âu. Trong khi quý tộc sở hữu đất đai thôn quê, và người nông dân làm việc trên đồng ruộng, một tầng lớp trưởng giả mới (theo nghĩa đen "những người thành thị") bắt đầu xuất hiện và hoạt động trong lĩnh vực thương mại tại thành phố. Điều này dẫn tới kết quả là tầng lớp trung lưu thường là giai cấp giàu có nhất xã hội (trong khi ngày nay nhiều người dùng thuật ngữ này theo định nghĩa chỉ nói tới những người giàu có ở mức trung bình.)

Từ sự khác biệt đó, chữ "tầng lớp trung lưu" đã được sử dụng ở Anh Quốc trong thế kỷ 18 để miêu tả tầng lớp chuyên nghiệp và thương gia, như một tầng lớp khác biệt khỏi cả giới quý tộc tước hiệuquý tộc chủ đất và cả những người lao động nông nghiệp và (ngày càng tăng) công nghiệp. Trong suốt thế kỷ 20, quý tộc tước hiệu của Anh trở nên ít thuần nhất hơn. Điều này bởi lai lịch ngày càng rộng của những người mới được phong tước, đa số họ về chính trị bị điều khiển bởi cái gọi là tầng lớp trung lưu, và sự giảm sút quyền lực của Thượng nghị viện so với Hạ nghị viện sau Luật nghị viện năm 1911. Khi mà yếu tố truyền tử của tầng lớp còn được quan tâm, danh hiệu tầng lớp trên trở nên ít hơn bởi sự hầu như ngừng lại của những tước phong sau Luật quý tộc trọn đời năm 1958. Điều này cộng với tỷ lệ suy vong tự nhiên của các danh hiệu cha truyền con nối và sự hầu như xoá bỏ yếu tố truyền tử trong Thượng nghị viện hồi cuối thế kỷ 20. Ở điểm này, các danh hiệu cha truyền con nối không thể là yếu tố để được là "tầng lớp trên," dù họ thực sự có kiểu cách bên trong tầng lớp trên. Tầng lớp trung lưu đã giúp cuộc Cách mạng Pháp diễn ra.

Đầu thời chủ nghĩa tư bản công nghiệp, tầng lớp trung lưu được định nghĩa chủ yếu là những công nhân cổ trắng—những người làm công ăn lương (như mọi người công nhân), nhưng làm công việc của mình trong những điều kiện dễ chịu và an toàn hơn so với điều kiện làm việc của những công nhân cổ xanh của "giai cấp công nhân." Sự mở rộng của thuật ngữ "tầng lớp trung lưu" tại Hoa Kỳ hầu như đã được khẳng định trong thập niên 1970 bởi sự suy tàn của các liên minh lao động ở Hoa Kỳ và sự tham gia của những phụ nữ trước kia chỉ làm việc nhà vào lực lượng lao động công. Một số lượng lớn công việc cổ cồn hồng xuất hiện, theo đó mọi người có thể tránh các điều kiện làm việc nguy hiểm của cổ cồn xanh và vì thế có thể tự tuyên bố là "tầng lớp trung lưu" thậm chí khi họ kiếm tiền ít hơn nhiều so với một công nhân cổ cồn xanh không thuộc tổ chức công đoàn.

Tại Hoa Kỳ, tới cuối thế kỷ 20, có nhiều người tự xác định họ thuộc tầng lớp trung lưu hơn là tầng lớp thấp hay giai cấp "lao động", với một số ít người tự coi mình là giới thượng lưu. Trái lại, tại Anh Quốc, nhiều người theo truyền thống sẽ được coi là thuộc tầng lớp trung lưu hiện tự coi mình thuộc giai cấp lao động. Những cuộc điều tra gần đây cho thấy hai phần ba người Anh muốn tự coi mình thuộc tầng lớp lao động. Điều này đã được miêu tả như một hình thức của sự "đảo ngược hành vi." Tuy nhiên Công đảng anh, phát triển từ phong trào lao động có tổ chức và ban đầu cho rằng hầu hết người ủng hộ họ thuộc tầng lớp lao động, đã tái định nghĩa mình dưới thời Tony Blair những năm 1990 là "Công đảng mới," một đảng cạnh tranh với Đảng bảo thủ về những lá phiếu của tầng lớp trung lưu cũng như tầng lớp lao động. Quy mô của tầng lớp trung lưu dựa trên việc họ tự định nghĩa như thế nào, hoặc theo giáo dục, tài sản, môi trường dạy dỗ, các mối quan hệ di truyền học, mạng lưới xã hội, cách cư xử hay các giá trị vân vân. Chúng đều liên quan lẫn nhau, dù không hoàn toàn phụ thuộc lẫn nhau. Các yếu tố sau thường được gán cho trong cách sử dụng thuật ngữ "tầng lớp trung lưu" hiện đại:

  • Hoàn thành giáo dục cấp ba, gồm mọi nhà tài chính, luật sư, bác sĩmục sư không cần biết tới nhiệm vụ hay tài sản của họ.
  • Niềm tin vào các giá trị tư sản, như tỷ lệ sở hữu nhà cao hay sở hữu nhà cho thuê và các công việc được chấp nhận là "bảo đảm." Tại Hoa Kỳ và Anh Quốc, các chính trị gia thường tập trung vào các phiếu bầu của tầng lớp trung lưu.
  • Phong cách sống. Tại Anh Quốc, vị thế xã hội đã không còn liên quan trực tiếp nhiều tới tài sản như tại Hoa Kỳ, và đã được xét theo các yếu tố như sự phân biệt, cách cư xử, nơi giáo dục và tầng lớp của những người bạn. Thông thường tại Hoa Kỳ, tầng lớp trung lưu là những người dễ tham gia nhất vào văn hoá pop. Thế hệ thứ hai của những người nhập cư mới thường từ bỏ văn hoá dân gian truyền thống của họ như một dấu hiệu đã bước vào tầng lớp trung lưu.